Đê cọc rỗng là gì? Các công bố khoa học về Đê cọc rỗng
Đê cọc rỗng là công trình thủy lợi nhằm ngăn nước biển, dòng sông và kiểm soát lũ lụt. Sử dụng các cọc rỗng bền chắc, đê cấu thành hệ thống vững chắc, tiết kiệm nguyên vật liệu. Xuất phát từ Trung Hoa, La Mã cổ đại, đê cọc rỗng được cải tiến nhờ tiến bộ công nghệ, với cấu trúc gồm cọc rỗng, lõi cọc và hệ thống liên kết. Ưu điểm là tiết kiệm vật liệu, sức chịu tải tốt, dễ lắp đặt và bảo trì. Ứng dụng trong bảo vệ bờ biển, xây dựng cầu cảng và chống biến đổi khí hậu, đê cọc rỗng đang phổ biến trong xây dựng hiện đại.
Đê Cọc Rỗng: Khái Niệm và Lịch Sử Phát Triển
Đê cọc rỗng là một công trình thủy lợi xây dựng để ngăn chặn sự xâm nhập của nước biển, dòng chảy sông hoặc để kiểm soát lũ lụt. Điểm nổi bật của đê cọc rỗng là việc sử dụng các cọc rỗng có độ bền cao cắm sâu xuống lòng đất, tạo ra một kết cấu vững chắc nhưng tiết kiệm nguyên vật liệu.
Lịch sử của đê cọc rỗng có từ nhiều thế kỷ trước, xuất hiện trong các nền văn minh cổ truyền như Trung Hoa, La Mã. Tuy nhiên, với tiến bộ của công nghệ và khoa học kỹ thuật, đê cọc rỗng mới được ứng dụng rộng rãi và cải tiến đáng kể trong các dự án hiện đại.
Cấu Trúc và Thành Phần Chính
Một hệ thống đê cọc rỗng thường bao gồm các thành phần chính như:
- Cọc Rỗng: Được làm từ vật liệu bền chắc như thép hay bê tông, cọc rỗng có nhiệm vụ chính là chịu tải và phân phối lực đều khắp hệ thống.
- Lõi Cọc: Phần bên trong các cọc rỗng thường được để trống để giảm trọng lượng và chi phí, đồng thời tạo không gian cho các thiết bị cảm biến hoặc kỹ thuật khác nếu cần.
- Hệ Thống Liên Kết: Các cọc rỗng được liên kết với nhau thông qua các thanh giằng hoặc bản nối, giúp hệ thống đê trở nên kiên cố và ổn định hơn.
Ưu Điểm của Đê Cọc Rỗng
Việc sử dụng đê cọc rỗng mang lại nhiều lợi ích vượt trội, bao gồm:
- Tiết Kiệm Nguyên Vật Liệu: Do cấu tạo rỗng, lượng nguyên vật liệu cần thiết để chế tạo và xây dựng bị giảm thiểu đáng kể.
- Tăng Cường Khả Năng Chịu Lực: Dù tiết kiệm nguyên liệu, đê cọc rỗng vẫn giữ được khả năng chịu lực tốt, đáp ứng nhu cầu ngăn nước và chống lũ.
- Dễ Dàng Trong Việc Cài Đặt và Bảo Trì: Các cọc rỗng nhẹ nhàng hơn so với cọc đặc, giúp quá trình vận chuyển và lắp đặt trở nên đơn giản hơn. Bên cạnh đó, việc bảo trì cũng ít tốn kém thời gian và công sức.
Những Ứng Dụng Đáng Chú Ý
Đê cọc rỗng được ứng dụng trên toàn cầu trong nhiều lĩnh vực khác nhau như xây dựng đê điều, bảo vệ bờ biển, xây dựng cầu cảng, và công trình thủy lợi khác. Nhờ vào sự đa dạng và linh hoạt trong thiết kế, đê cọc rỗng cũng thường được sử dụng trong các dự án chống biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường ven biển.
Kết Luận
Với những ưu điểm vượt trội, đê cọc rỗng ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong các công trình dân dụng và công nghiệp. Công nghệ và giải pháp xây dựng này không chỉ đáp ứng nhu cầu về kỹ thuật và kinh tế mà còn đóng góp tích cực vào việc bảo vệ môi trường và ứng phó với thách thức của biến đổi khí hậu.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "đê cọc rỗng":
Việc đặc trưng đầy đủ vi khuẩn kháng methicillin
Kỹ thuật điện di gel gradient biến tính (DGGE) của các đoạn DNA được tạo ra bằng phản ứng chuỗi polymerase (PCR) với mồi chuyên biệt cho DNA ribosomal 16S được sử dụng để phát hiện vi khuẩn axit lactic (LAB) thuộc các chi
Trong nghiên cứu này, chúng tôi mô tả một phương pháp thử nghiệm multiplex PCR để phát hiện chín gene kháng kháng sinh có liên quan lâm sàng của
Vi khuẩn gây bệnh và virus ruột có thể được đưa vào môi trường thông qua việc xả thải của con người. Cần thiết phải có các phương pháp phát hiện và định lượng nhanh chóng virus ở người và vi khuẩn chỉ thị phân trong nước để ngăn ngừa sự tiếp xúc của con người với các tác nhân gây bệnh qua nước uống và các hoạt động giải trí. Bài báo này mô tả sự phát triển của hai phương pháp PCR thời gian thực để phát hiện và định lượng adenovirus ở người và Enterococci trong nước môi trường. Để định lượng Enterococci theo thời gian thực, một bộ mồi và một đầu dò nhắm vào gen rRNA 23S đã được sử dụng. Đường chuẩn được tạo ra dựa trên DNA gen của
Gần đây, chúng tôi đã chứng minh rằng các đại thực bào dẫn xuất từ bạch cầu đơn nhân (MDM) của con người, được xử lý với chloroquine hoặc amoni clorua, đã làm tăng đáng kể hoạt động kháng nấm chống lại mầm bệnh liên quan đến AIDS là
Hệ thống quản lý stress chủ yếu của cơ thể là trục hạ đồi - tuyến yên - tuyến thượng thận (HPA). Trục HPA phản ứng với các thách thức về thể chất và tinh thần để duy trì sự ổn định nội môi một phần bằng cách kiểm soát mức cortisol trong cơ thể. Sự rối loạn chức năng của trục HPA liên quan đến nhiều bệnh liên quan tới stress.
Chúng tôi đã phát triển một mô hình có cấu trúc của trục HPA bao gồm thụ thể glucocorticoid (GR). Mô hình này tích hợp động học phi tuyến tính của sự tổng hợp GR tại tuyến yên. Hiệu ứng phi tuyến tính phát sinh từ thực tế rằng GR tạo thành đồng dimer sau khi bị kích hoạt bởi cortisol và tự kích thích sự tổng hợp của nó tại tuyến yên. Sự đồng dimer hóa này cho phép tồn tại hai trạng thái ổn định (thấp và cao) và một trạng thái không ổn định của sự sản xuất cortisol dẫn đến trạng thái tồn tại hai (bistability) của trục HPA. Trong mô hình này, nồng độ GR thấp đại diện cho trạng thái ổn định bình thường, và nồng độ GR cao đại diện cho trạng thái ổn định bị rối loạn. Một cú sốc ngắn hạn trong trạng thái ổn định bình thường sẽ tạo ra một sự biến động nhỏ trong nồng độ GR mà nhanh chóng trở lại mức bình thường. Stress kéo dài và lặp đi lặp lại sẽ tạo ra nồng độ GR cao và bền vững không trở về mức nền, buộc trục HPA chuyển sang một trạng thái ổn định thay thế. Một trong những hậu quả của việc tăng nồng độ GR ổn định là mức cortisol ổn định giảm, điều này đã được quan sát thấy trong một số rối loạn liên quan đến stress như Hội chứng Mệt mỏi Mạn tính (CFS).
Sự bao gồm của biểu hiện GR tại tuyến yên đã dẫn đến một mô hình sinh học hợp lý về sự tồn tại hai trạng thái ổn định của trục HPA và tình trạng hypocortisolism. Nồng độ GR cao đã tăng cường phản hồi âm tính của cortisol lên hạ đồi và buộc trục HPA vào một trạng thái cortisol thấp thay thế. Mô hình này có thể được sử dụng để khám phá các cơ chế tiềm ẩn gây ra các rối loạn của trục HPA.
Các mẫu nuôi cấy sơ cấp từ vật liệu lâm sàng đã được sàng lọc để tìm kiếm sự hiện diện của các khuẩn lạc nghi ngờ là Streptococcus agalactiae (nhóm B Lancefield). Sáu mươi ba mẫu nuôi cấy như vậy và 108 mẫu khác của liên cầu khuẩn tan huyết beta (nhóm A, C và G), được thu thập trong 3 tháng đầu của cuộc điều tra, đã được nghiên cứu thông qua phân nhóm Lancefield, thủy phân sodium hippurate và bài kiểm tra CAMP tiêu chuẩn. Tất cả liên cầu khuẩn đều được cấy vuông góc với đường cấy của Staphylococcus sản xuất độc tố beta trên đĩa thạch máu cừu và ủ khí tài trong hũ nến và kỵ khí ở 37 C. Các đĩa được kiểm tra sau 5-6 giờ và 18 giờ ủ. Sự sinh hemolysis với hình "mũi tên" đặc trưng chỉ ra một phản ứng CAMP dương tính. Tất cả liên cầu nhóm B đều cho phản ứng CAMP dương tính trong hũ nến hoặc kỵ khí, thường trong vòng 5-6 giờ, và khí tài sau 18 giờ ủ. Tất cả liên cầu nhóm A chỉ cho phản ứng dương tính trong điều kiện kỵ khí. Các nhóm C và G là âm tính dưới mọi điều kiện khí quyển. Phản ứng CAMP là một phương pháp nhanh chóng và đáng tin cậy cho việc nhận dạng sơ bộ nhóm liên cầu B khi sử dụng hũ nến trong quá trình ủ.
Các nghiên cứu trước đây sử dụng phương pháp miễn dịch huỳnh quang (IF) đã chỉ ra rằng <i>Streptococcus mutans</i> có thể ưu tiên bám vào các phân vị cụ thể trong mảng bám kẽ răng. Nghiên cứu này nhằm mở rộng những quan sát này tới các loại Streptococcus mutans khác và Lactobacilli trong mảng bám biên nướu. Hai trăm bảy mươi mẫu mảng bám kẽ răng được lấy từ 90 răng (3 mẫu từ mỗi răng) ở 64 trẻ em; ba phân vị biên nướu liên quan đến khu vực tiếp xúc: xa khỏi (A), bên cạnh (S) và dưới (B) khu vực tiếp xúc. Các mẫu được xử lý bằng IF gián tiếp sử dụng kháng huyết thanh đa giá hiệu suất cao chống lại <i>S. mutans</i> 'c', anti-<i>S. sobrinus</i> 'd', anti-<i>L. casei</i> và anti-<i>L. acidophilus</i>. Một mối liên kết tích cực tổng thể được tìm thấy giữa <i>S. mutans</i> 'c' và <i>S. sobrinus</i> 'd' (p < 0.001). Sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0.1) được tìm thấy giữa tỷ lệ phần trăm tại mỗi phân vị cho <i>S. mutans</i> 'c': A = 39%, S = 51% và B = 70%, và cho <i>S. sobrinus</i> 'd' là 21, 33 và 49%. Streptococci mutans (MS) có xu hướng bám vào phân vị dưới khu vực tiếp xúc (B = 81%) so với phân vị A và S (48 và 62%, tương ứng). <i>S. mutans</i> 'c' và <i>S. sobrinus</i> 'd' được phát hiện cùng nhau tại các phân vị A = 12%, S = 22%, và B = 38%, với tỷ lệ phần trăm tại các vị trí B cao hơn các vị trí A (B > A, p < 0.01 và B > S, p < 0.05). Các loại <i>Lactobacillus</i> spp. hiếm khi bị cô lập, và thường được tìm thấy cùng với MS. Có mối quan hệ tích cực giữa sự hiện diện của Lactobacilli hoặc MS và sâu răng (chỉ tổn thương trắng), mặc dù các loài này thường có thể bị cô lập từ các vị trí không sâu răng. Sự hiện diện của cả <i>S. mutans</i> 'c' và <i>S. sobrinus</i> 'd' có mối tương quan mạnh mẽ với các tổn thương sâu răng sớm. Ngoài ra, nghiên cứu này còn xác nhận sự biến đổi của vi sinh vật tại các phân vị khác nhau trong mảng bám răng kẽ răng.
Các u xơ tử cung (leiomyomas) là các khối u cơ trơn lành tính thường chứa một lượng lớn ma trận ngoại bào (ECM). Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã khảo sát sự tương tác giữa các tế bào u xơ tử cung người (UtLM) và các nguyên bào sợi (FB) thu được từ u xơ tử cung, cũng như tầm quan trọng của chúng trong sự phát triển tế bào và sản xuất protein ECM bằng cách sử dụng hệ thống đồng nuôi cấy.
Chúng tôi đã phát hiện ra sự gia tăng khả năng phân chia tế bào, và nồng độ collagen loại I ECM và protein gắn insulin-like growth factor-3 tăng lên sau khi đồng nuôi cấy. Cũng có sự gia tăng tiết ra yếu tố tăng trưởng nội mạch, yếu tố tăng trưởng biểu bì, yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi-2 và yếu tố tăng trưởng tiểu cầu A và B trong môi trường của các tế bào UtLM đồng nuôi cấy với FB. Các lưới protein cho thấy sự gia tăng mức độ phosphorylated receptor tyrosine kinases (RTKs) của các ligands yếu tố tăng trưởng trên, và các blot miễn dịch cho thấy mức độ tăng của yếu tố hạ nguồn RTK, phospho-mitogen activated protein kinase 44/42 trong các tế bào UtLM được đồng nuôi cấy. Cũng có sự gia tăng tiết ra yếu tố tăng trưởng biến hình beta 1 và 3, và yếu tố tăng trưởng biến hình beta receptor I được kết tủa miễn dịch từ các tế bào UtLM đồng nuôi cấy cho thấy sự biểu hiện phosphoserine tăng lên. Các yếu tố hạ nguồn phospho-small mothers against decapentaplegic -2 và -3 protein (SMAD) cũng tăng lên trong các tế bào UtLM đồng nuôi cấy. Tuy nhiên, không có những tác động trên được quan sát thấy trong các tế bào cơ tử cung bình thường khi được đồng nuôi cấy với FB. Các yếu tố hòa tan được giải phóng bởi các nguyên bào sợi nguồn u và/hoặc các tế bào UtLM, và sự kích hoạt các thụ thể yếu tố tăng trưởng và các con đường của chúng đã kích thích sự phân chia của các tế bào UtLM và tăng cường sản xuất protein ECM.
Dữ liệu này hỗ trợ tầm quan trọng của sự tương tác giữa các tế bào u xơ và các nguyên bào sợi ECM
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10