Scholar Hub/Chủ đề/#đê cọc rỗng/
Đê cọc rỗng là công trình thủy lợi nhằm ngăn nước biển, dòng sông và kiểm soát lũ lụt. Sử dụng các cọc rỗng bền chắc, đê cấu thành hệ thống vững chắc, tiết kiệm nguyên vật liệu. Xuất phát từ Trung Hoa, La Mã cổ đại, đê cọc rỗng được cải tiến nhờ tiến bộ công nghệ, với cấu trúc gồm cọc rỗng, lõi cọc và hệ thống liên kết. Ưu điểm là tiết kiệm vật liệu, sức chịu tải tốt, dễ lắp đặt và bảo trì. Ứng dụng trong bảo vệ bờ biển, xây dựng cầu cảng và chống biến đổi khí hậu, đê cọc rỗng đang phổ biến trong xây dựng hiện đại.
Đê Cọc Rỗng: Khái Niệm và Lịch Sử Phát Triển
Đê cọc rỗng là một công trình thủy lợi xây dựng để ngăn chặn sự xâm nhập của nước biển, dòng chảy sông hoặc để kiểm soát lũ lụt. Điểm nổi bật của đê cọc rỗng là việc sử dụng các cọc rỗng có độ bền cao cắm sâu xuống lòng đất, tạo ra một kết cấu vững chắc nhưng tiết kiệm nguyên vật liệu.
Lịch sử của đê cọc rỗng có từ nhiều thế kỷ trước, xuất hiện trong các nền văn minh cổ truyền như Trung Hoa, La Mã. Tuy nhiên, với tiến bộ của công nghệ và khoa học kỹ thuật, đê cọc rỗng mới được ứng dụng rộng rãi và cải tiến đáng kể trong các dự án hiện đại.
Cấu Trúc và Thành Phần Chính
Một hệ thống đê cọc rỗng thường bao gồm các thành phần chính như:
- Cọc Rỗng: Được làm từ vật liệu bền chắc như thép hay bê tông, cọc rỗng có nhiệm vụ chính là chịu tải và phân phối lực đều khắp hệ thống.
- Lõi Cọc: Phần bên trong các cọc rỗng thường được để trống để giảm trọng lượng và chi phí, đồng thời tạo không gian cho các thiết bị cảm biến hoặc kỹ thuật khác nếu cần.
- Hệ Thống Liên Kết: Các cọc rỗng được liên kết với nhau thông qua các thanh giằng hoặc bản nối, giúp hệ thống đê trở nên kiên cố và ổn định hơn.
Ưu Điểm của Đê Cọc Rỗng
Việc sử dụng đê cọc rỗng mang lại nhiều lợi ích vượt trội, bao gồm:
- Tiết Kiệm Nguyên Vật Liệu: Do cấu tạo rỗng, lượng nguyên vật liệu cần thiết để chế tạo và xây dựng bị giảm thiểu đáng kể.
- Tăng Cường Khả Năng Chịu Lực: Dù tiết kiệm nguyên liệu, đê cọc rỗng vẫn giữ được khả năng chịu lực tốt, đáp ứng nhu cầu ngăn nước và chống lũ.
- Dễ Dàng Trong Việc Cài Đặt và Bảo Trì: Các cọc rỗng nhẹ nhàng hơn so với cọc đặc, giúp quá trình vận chuyển và lắp đặt trở nên đơn giản hơn. Bên cạnh đó, việc bảo trì cũng ít tốn kém thời gian và công sức.
Những Ứng Dụng Đáng Chú Ý
Đê cọc rỗng được ứng dụng trên toàn cầu trong nhiều lĩnh vực khác nhau như xây dựng đê điều, bảo vệ bờ biển, xây dựng cầu cảng, và công trình thủy lợi khác. Nhờ vào sự đa dạng và linh hoạt trong thiết kế, đê cọc rỗng cũng thường được sử dụng trong các dự án chống biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường ven biển.
Kết Luận
Với những ưu điểm vượt trội, đê cọc rỗng ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong các công trình dân dụng và công nghiệp. Công nghệ và giải pháp xây dựng này không chỉ đáp ứng nhu cầu về kỹ thuật và kinh tế mà còn đóng góp tích cực vào việc bảo vệ môi trường và ứng phó với thách thức của biến đổi khí hậu.
<i>Cryptococcus neoformans</i> Cư Ngụ Trong Phagolysosome Axit của Đại Thực Bào Người Infection and Immunity - Tập 67 Số 2 - Trang 885-890 - 1999
TÓM TẮTGần đây, chúng tôi đã chứng minh rằng các đại thực bào dẫn xuất từ bạch cầu đơn nhân (MDM) của con người, được xử lý với chloroquine hoặc amoni clorua, đã làm tăng đáng kể hoạt động kháng nấm chống lại mầm bệnh liên quan đến AIDS là Cryptococcus neoformans. Cả hai chất này đều nâng cao độ pH của lysosome, cho thấy rằng hoạt động kháng nấm tăng lên là một chức năng của việc làm kiềm hóa phagolysosome. Hơn nữa, có một mối tương quan nghịch giữa sự tăng trưởng của C. neoformans trong môi trường không có tế bào và pH. Dữ liệu này cho thấy rằng C. neoformans đã thích nghi tốt để tồn tại trong các ngăn axit. Để kiểm tra giả thuyết này, chúng tôi đã thực hiện các nghiên cứu nhằm xác định pH của phagosome MDM và neutrophil ở người chứa C. neoformans. Nấm đã được dán nhãn với các dẫn xuất isothiocyanate của hai chất dò pH nhạy cảm: fluorescein và 2′,7′-difluorofluorescein (Oregon Green). Các chất dò này có pKa là 6.4 và 4.7, tương ứng, cho phép phát hiện pH nhạy bén trên một dải rộng. pH của phagosome trung bình khoảng 5 sau khi hấp thụ nấm sống hoặc nấm bị tiêu hủy do nhiệt và duy trì tương đối ổn định theo thời gian, điều này cho thấy C. neoformans không chủ động điều chỉnh pH của phagosome của nó. Việc bổ sung 10 và 100 μM chloroquine dẫn đến sự tăng pH của phagosome từ mức cơ bản 5,1 lên đến 6,5 và 7,3, tương ứng. Cuối cùng, qua miễn dịch huỳnh quang, sự đồng định vị của C. neoformans và protein màng lysosome của MDM LAMP-1 đã được chứng minh, điều này thiết lập rằng sự hợp nhất của các phagosome chứa C. neoformans với các ngăn lysosome diễn ra. Như vậy, không giống như nhiều mầm bệnh nội bào khác, C. neoformans không né tránh sự hợp nhất với ngăn lysosome của đại thực bào mà cư ngụ và sống sót trong phagolysosome axit.
#Cryptococcus neoformans #phagolysosome #chloroquine #pH #đại thực bào người #lysosome #miễn dịch huỳnh quang.
Nghiên cứu sinh thái về Streptococcus mutans, Streptococcus sobrinus và Lactobacillus spp. tại các phân vị trong mảng bám răng tiếp giáp ở trẻ em Caries Research - Tập 32 Số 1 - Trang 51-58 - 1998
Các nghiên cứu trước đây sử dụng phương pháp miễn dịch huỳnh quang (IF) đã chỉ ra rằng <i>Streptococcus mutans</i> có thể ưu tiên bám vào các phân vị cụ thể trong mảng bám kẽ răng. Nghiên cứu này nhằm mở rộng những quan sát này tới các loại Streptococcus mutans khác và Lactobacilli trong mảng bám biên nướu. Hai trăm bảy mươi mẫu mảng bám kẽ răng được lấy từ 90 răng (3 mẫu từ mỗi răng) ở 64 trẻ em; ba phân vị biên nướu liên quan đến khu vực tiếp xúc: xa khỏi (A), bên cạnh (S) và dưới (B) khu vực tiếp xúc. Các mẫu được xử lý bằng IF gián tiếp sử dụng kháng huyết thanh đa giá hiệu suất cao chống lại <i>S. mutans</i> 'c', anti-<i>S. sobrinus</i> 'd', anti-<i>L. casei</i> và anti-<i>L. acidophilus</i>. Một mối liên kết tích cực tổng thể được tìm thấy giữa <i>S. mutans</i> 'c' và <i>S. sobrinus</i> 'd' (p < 0.001). Sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0.1) được tìm thấy giữa tỷ lệ phần trăm tại mỗi phân vị cho <i>S. mutans</i> 'c': A = 39%, S = 51% và B = 70%, và cho <i>S. sobrinus</i> 'd' là 21, 33 và 49%. Streptococci mutans (MS) có xu hướng bám vào phân vị dưới khu vực tiếp xúc (B = 81%) so với phân vị A và S (48 và 62%, tương ứng). <i>S. mutans</i> 'c' và <i>S. sobrinus</i> 'd' được phát hiện cùng nhau tại các phân vị A = 12%, S = 22%, và B = 38%, với tỷ lệ phần trăm tại các vị trí B cao hơn các vị trí A (B > A, p < 0.01 và B > S, p < 0.05). Các loại <i>Lactobacillus</i> spp. hiếm khi bị cô lập, và thường được tìm thấy cùng với MS. Có mối quan hệ tích cực giữa sự hiện diện của Lactobacilli hoặc MS và sâu răng (chỉ tổn thương trắng), mặc dù các loài này thường có thể bị cô lập từ các vị trí không sâu răng. Sự hiện diện của cả <i>S. mutans</i> 'c' và <i>S. sobrinus</i> 'd' có mối tương quan mạnh mẽ với các tổn thương sâu răng sớm. Ngoài ra, nghiên cứu này còn xác nhận sự biến đổi của vi sinh vật tại các phân vị khác nhau trong mảng bám răng kẽ răng.
#Streptococcus mutans #Streptococcus sobrinus #Lactobacillus #mảng bám kẽ răng #miễn dịch huỳnh quang #sâu răng #vi sinh vật #trẻ em
Đánh giá cường độ chịu nén của cọc xi măng đất được chế tạo trong phòng thí nghiệm và hiện trường Cọc xi măng đất (CXMĐ) ngày càng phổ biến và được sử rộng rãi trong việc gia cố nền đất yếu, đặc biệt tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Phương pháp nén đơn trục trong phòng được sử dụng trong nghiên cứu này nhằm đánh giá cường độ chịu nén của cọc xi măng đất. Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng XM/Đ ít nhất từ 300 kg/m3 trở lên được xem là phù hợp với địa chất yếu tại khu vực nghiên cứu. Ngoài ra, tỷ lệ cường độ chịu nén của cọc xi măng đất ngoài hiện trường so với trong phòng thí nghiệm tại các khu vực nghiên cứu nằm trong khoảng (0,32÷0,96). Điều này cho thấy phương pháp thi công CXMĐ (jet-grouting) đảm bảo chất lượng với hệ số tương quan cao hơn so với hệ số được đề nghị trong tiêu chuẩn hiện hành.
#Cọc xi măng đất #Cường độ chịu nén #Đất yếu
QUAN ĐIỂM VÀ THÓI QUEN SỬ DỤNG SẢN PHẨM TỪ DỪA CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG THỜI KỲ DỊCH BỆNH COVID-19 Sản phẩm nước dừa đóng hộp là một trong những sản phẩm từ dừa đứng đầu trong các sản phẩm từ dừa. Thị phần sản phẩm dừa đóng lon/hộp hơn nhiều hơn sản lượng tiêu thụ nội địa. Trong tình hình dịch bệnh COVID-19, sản lượng xuất khẩu bị giảm và việc nghiên cứu những dòng sản phẩm từ dừa nước cho thị trường nội địa vốn quen thuộc với việc sử dụng dừa tươi; cũng như làm nguyên liệu cho các dạng thức uống từ dừa là cần thiết. Trong nghiên cứu này tiến hành thu thập dữ liệu trên 247 người tiêu dùng (50 nam và 197 nữ) được khảo sát trực tuyến trên hệ thống surveymonky. Dữ liệu câu hỏi gồm 2 phần nội dung chính: (1) xác định những quan điểm của người tiêu dùng liên quan đến “dừa” và (2) thói quen sử dụng dừa: thói quen sử dụng một số sản phẩm từ dừa, đặc biệt là sản phẩm nước dừa và các thông tin về nhân khẩu học người: quê quán, độ tuổi, giới tính. Các kết quả chính chỉ ra rằng 80% các khái niệm về dừa gắn liền với các sản phẩm từ dừa (63%) và 17 % tính chất của sản phẩm dừa (vị ngọt, vị béo…) và 20% còn lại gắn với địa danh, công dụng sản phẩm. Trong các nhóm sản phẩm từ dừa thì các sản phẩm từ “dừa” gắn liền với tần số sử dụng và hình thức sử dụng; tính chất vị và cấu trúc được người tiêu dùng quan tâm hơn. Các ý tưởng sử dụng dừa như nguyên liệu tạo các sản phẩm khác được người tiêu dùng đánh giá cao. Nghiên cứu này có ý nghĩa trong điều kiện hiện nay đối với dòng sản phẩm công nghiệp thực phẩm chế biến có thể làm nguyên liệu đầu vào cho các dạng thức uống pha chế theo định hướng người tiêu dùng và cơ hội phát triển các dòng sản phẩm từ dừa hướng vào thị trường nội địa tiềm năng.
#Vietnamese #consumer #coconut water #COVID-19 pandemic #domestic market
ẢNH HƯỞNG CỦA ÁNH SÁNG TỪ LIGHT EMITTING DIODE LÊN SINH TRƯỞNG VÀ TÍCH LŨY ASTAXANTHIN CỦA HAEMATOCOCCUS PLUVIALIS ĐƯỢC NUÔI TRONG TWIN-LAYER POROUS SUBSTRATE PHOTOBIOREACTOR PHƯƠNG NGHIÊNG Vi tảo Haematococcus pluvialis hiện nay được nuôi để thu astaxanthin tự nhiên trong các hệ thống nuôi huyền phù hoặc cố định. Khi nuôi tảo theo kiểu quang tự dưỡng, hệ thống chiếu sáng ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh trưởng và tích lũy astaxanthin trong tế bào. Trong nghiên cứu này, hệ thống twin-layer porous substrate photobioreactor được sử dụng để nuôi cố định H. pluvialis với chiếu sáng bằng Light Emitting Diode (LED) đơn sắc màu đỏ hoặc lam hoặc kết hợp đỏ và lam đồng thời. Các chu kì sáng/tối khác nhau của LED đỏ và lam được áp dụng và lựa chọn dựa trên tiêu chí sinh trưởng và tích lũy astaxanthin của vi tảo. Sự kết hợp ánh sáng LED đỏ và lam ở cường độ sáng 300-400 µmol photon.m -2 .s -1 cho kết quả tăng sinh khối khô và tích lũy astaxanthin cao nhất , với chế độ chiếu sáng 24 giờ sáng:0 giờ tối cho k ết quả sinh khối khô vi tảo đạt 111,6 g.m -2 và tích lũy astaxanthin 1,3% chỉ sau 10 ngày nuôi. Việc sử dụng ánh sáng đơn sắc từ LED cho thấy hiệu quả về năng lượng và có khả năng ứng dụng cho việc nuôi cấy tảo cố định trong các hệ thống twin-layer porous substrate photobioreactor quy mô lớn hơn.
#Astaxanthin #Haematococcus pluvialis #Light Emitting Diode #hệ thống quang sinh học chất nền xốp
SO SÁNH HIỆU QUẢ PHỤC HỒI VẬN ĐỘNG SAU ĐỘT QUỴ CỦA CHÂM CỨU CẢI TIẾN CƯỜNG ĐỘ THẤP VỚI CHÂM CỨU CẢI TIẾN CƯỜNG ĐỘ CAO TRONG PHÁC ĐỒ CHÂM CỨU CẢI TIẾN VẬT LÝ TRỊ LIỆU – THUỐC BỔ DƯƠNG HOÀN NGŨ Đặt vấn đề: Đã có nhiều công bố khoa học về hiệu quả phục hồi liệt sau đột quỵ của Châm Cứu Cải Tiến (CCCT) 1 lần/ ngày (CCCT cường độ thấp). Mục tiêu: so sánh hiệu quả phục hồi vận động và cải thiện sinh hoạt hàng ngày các bệnh nhân liệt sau đột quỵ giữa phác đồ CCCT cường độ thấp + Vật lý trị liệu (VLTL) + thuốc Bổ dương hoàn ngũ thang (BDHNT) với phác đồ CCCT cường độ cao (CCCT 2 lần/ ngày) + VLTL + BDHNT. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm, mở, có đối chứng, phân bố ngẫu nhiên. Bệnh nhân liệt ½ người sau đột quỵ, đã qua giai đoạn cấp, đạt tiêu chuẩn chọn và không có tiêu chuẩn loại trừ được phân ngẫu nhiên vào 2 nhóm chứng và can thiệp. Tất cả người tham gia được theo dõi và đánh giá 3 lần (trước, sau điều trị 10 ngày và 20 ngày). Kết quả: Cải thiện ở nhóm can thiệp tốt hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Chỉ số Barthel tăng thêm 36,97 điểm so với 21,91 điểm; FMA chi trên tăng 247% so với 56,48%; FMA chi dưới tăng 97,35% so với 66,15%; test 9 lỗ tăng 26,5% so với 10,5%; đi bộ 2 phút có hỗ trợ tăng gấp 26,91 lần so với 23,45 lần sau 20 ngày điều trị. Kết luận: CCCT cường độ cao trong 20 ngày (trong phác đồ phối hợp với tập vận động và thuốc YHCT) có hiệu quả cải thiện phục hồi vận động và cải thiện hoạt động trong sinh hoạt thường ngày tốt hơn CCCT cường độ thấp.
#Châm cứu cải tiến-CCCT #chỉ số Barthel #FMA #test 9 lỗ #test đi bộ 2 phút #liệt ½ người sau đột quỵ
TÁC DỤNG CẢI THIỆN CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG CỦA PHƯƠNG PHÁP CẤY CHỈ KẾT HỢP UỐNG CAO THỐNG TÝ TRONG ĐIỀU TRỊ ĐAU THẮT LƯNG DO THOÁI HÓA CỘT SỐNG Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá tác dụng cải thiện chức năng vận động cột sống thắt lưng bằng phương pháp cấy chỉ kết hợp uống cao Thống tý trong điều trị đau thắt lưng do thoái hóa cột sống. Phương pháp: can thiệp lâm sàng, có đối chứng, so sánh trước và sau điều trị. 60 bệnh nhân chia làm 2 nhóm, nhóm nghiên cứu 30 bệnh nhân cấy chỉ kết hợp uống Cao thống tý, nhóm đối chứng, điện châm kết hợp uống Cao thống tý. Thời gian điều trị 20 ngày. Kết quả: Sau điều trị, độ giãn cột sống thắt lưng (chỉ số Schober), nghiệm pháp tay đất, tầm vận động cột sống thắt lưng (cúi, ngửa, nghiêng phải, nghiêng trái) đều cải thiện tốt hơn trước điều trị (p < 0,05), hiệu quả nhóm nghiên cứu tương đương nhóm đối chứng (p > 0,05). Kết luận: Phương pháp cấy chỉ kết hợp uống Cao thống tý có tác dụng cải thiện chức năng vận động cột sống thắt lưng trên bệnh nhân đau thắt lưng do thoái hóa cột sống. Mức độ cải thiện tương đương nhóm uống Cao thống tý kết hợp điện châm.
#Cấy chỉ #Điện châm #Cao thống tý #Thoái hóa cột sống thắt lưng
TÌNH HÌNH ĐỀ KHÁNG KHÁNG SINH, KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TRONG NHIỄM TRÙNG CỔ SÂU DO CÁC LOÀI STREPTOCOCCUS Đặt vấn đề: Các loài Streptococcus là tác nhân gram dương thường gặp nhất trong bệnh lý nhiễm trùng cổ sâu. Tình hình đề kháng kháng sinh của các loài Streptococcus có vai trò quan trọng trong việc lựa chọn kháng sinh ban đầu thích hợp. Mục tiêu: Khảo sát tình hình đề kháng kháng sinh của các loài Streptococcus và kết quả điều trị nhiễm trùng cổ sâu tại bệnh viện Chợ Rẫy. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả loạt ca, ghi nhận 77 trường hợp nhiễm trùng cổ sâu được điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 6/2021 đến 6/2022 có kết quả cấy mủ hiếu khí định danh được các loài Streptococcus và có kết quả kháng sinh đồ. Kết quả: Các loài Streptococcus đề kháng cao với Clindamycin và Erythromycin: nhóm Streptococcus anginosus (Streptococcus anginosus group- SAG) (70,4%; 69,2%), các nhóm khác thuộc nhóm Viridan Streptococci (61,1%; 73,3%) và nhóm Streptococci tiêu huyết β (75%; 80%). SAG đề kháng với Penicillin (30,2%) và Cephalosporin (1,9%). Các nhóm khác thuộc nhóm Viridan Streptococci đề kháng với Penicillin (55,5%) và Cephalosporin (11,1%). Nhóm Streptococci tiêu huyết β nhạy 100% với Penicillin và Cephalosporin. Các loài Streptococcus nhạy 100% với Linezolide, Vancomycin. Tất cả các bệnh nhân đều có kết quả điều trị tốt. Thời gian điều trị trung bình là 10,2 ± 6,1 ngày. Kết luận: Các loài Streptococcus trong bệnh lý nhiễm trùng cổ sâu chủ yếu thuộc nhóm Viridans Streptococci mà trong đó chiếm ưu thế là SAG. Các loài Streptococcus đề kháng cao với Erythromycin và Clindamycin. Nhóm Viridans Streptococci có các chủng đề kháng với kháng sinh nhóm β-lactam. Kết quả điều trị tốt, không có bệnh nhân tử vong.
#Nhiễm trùng cổ sâu #đề kháng kháng sinh #Streptococcus
VAI TRÒ CỦA DEXAMETHASONE TRONG BỘC LỘ CỬA SỔ TRÒN CẤY ĐIỆN CỰC ỐC TAI ĐỐI VỚI TRỞ KHÁNG IFT VÀ ĐÁP ỨNG THẦN KINH ART Mục tiêu: Đánh giá vai trò của Dexamethasone (DEX) trong bộc lộ cửa sổ tròn cấy điện cực ốc tai đối với kết quả đo trở kháng IFT và đáp ứng thần kinh ART. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả tiến cứu cócan thiệp được thực hiện trên 33 bệnh nhân cấy điện cực ốc tai từ tháng 8/2020 đến tháng 8/2021và được chia làm 3 nhóm: nhóm bơm DEX trong lúc bộc lộ cửa sổ tròn, nhóm nhúng điện cực vào DEX và nhóm không sử dụng DEX. Kết quả nghiên cứu: trở kháng cao nhất đo được tại 1 kênh điện cực là 22,4(kΩ), thấp nhất là 1,21(kΩ). Giá trị trung bình tại tất cả các kênh là 4,22(kΩ). Trở kháng trung bình đo được tại các nhóm kênh điện cực đỉnh, giữa, đáy đều đạt kết quả tốt (<5kΩ), trở kháng trung bình thấp nhất đo được tại nhóm nhúng DEX với giá trị là 3,97 ± 0,88 (kΩ), tiếp đến là nhóm bơm DEX với giá trị là 4,27 ±1,41 (kΩ), cao nhất là nhóm không sử dụng DEX với kết quả là 4,48±1,28 (kΩ), tuy nhiên sự khác biệt giữa các nhóm không có ý nghĩa thống kê với giá trị p > 0,05. Kết quả đo đáp ứng thần kinh ART tỷ lệ đáp ứng tốt tại các nhóm điện cực đỉnh, giữa, đáy lần lượt là 72,7; 81,8 và 84,8%. Kết quả đo đáp ứng thần kinh ART tại 3 nhóm bơm DEX, nhúng DEX và không sử dụng DEXsự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p> 0,05. Kết luận: Vai trò của Desamethasone trong bộc lộ cửa sổ tròn cấy điện cực ốc tai đối với kết quả đo trở kháng IFT và đáp ứng thần kinh ART không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm đối chứng.
#cấy điện cực ốc tai #dexamethasone #trở kháng #đáp ứng thần kinh